Phương pháp giáo dục Reggio Emilia
Phương pháp giáo dục có thể xem là kim chỉ nam định hướng cho chương trình giáo dục mầm non. Vậy nên chương trình và phương pháp giáo dục cũng là một yếu tố quan trọng ba mẹ cần quan tâm khi chọn trường mầm non cho trẻ.
Bên cạnh các phương pháp giáo dục tiên tiến được áp dụng phổ biến hiện nay như Montessori hay Phương pháp trí thông minh đa dạng, các trường mầm non song ngữ quốc tế còn áp dụng phương giáo dục Reggio Emilia trong hoạt động giảng dạy.
Lịch sử ra đời
Phương pháp giáo dục Reggio Emilia được sáng lập bởi nhà tâm lý học người Ý Loris Malaguzzi, khi xã hội Ý được xây dựng lại, với mục tiêu giáo dục trẻ phát triển toàn diện các kỹ năng nhằm giúp trẻ trở thành công dân toàn cầu.
Các lợi ích mà phương pháp Reggio Emilia mang đến cho trẻ
- Kích thích sự tò mò, quan sát của trẻ.
- Giúp trẻ khám phá thế giới xung quanh từ đó tạo nên sự yêu thích tìm tòi học tập ở trẻ.
- Giúp trẻ phát triển khả năng tưởng tượng và sáng tạo qua các hoạt động như vẽ, nặn, sáng tác tranh.
- Phát triển khả năng hợp tác và làm việc nhóm của trẻ.
- Giúp trẻ biết yêu và bảo vệ thiên nhiên.
Quan điểm giáo dục
Triết lý Reggio Emilia bắt nguồn từ niềm tin cho rằng trong mỗi trẻ đều chứa đựng một tiềm năng lớn và tiềm năng đó sẽ được phát triển nhờ chính trí tò mò vốn có của trẻ. Trẻ cố gắng tìm hiểu thế giới xung quanh và tự đưa ra cách riêng của mình để giải thích sự vận động của thế giới xung quanh trẻ.
Trẻ được khuyến khích và tạo điều kiện để tự giải quyết vấn đề và thể hiện ý tưởng, cảm xúc của bản thân. Môi trường học tập được thiết kế để thể hiện tính linh hoạt và thẩm mỹ. Ông Loris Malaguzzi chia sẻ: “Nhiệm vụ của chúng tôi làm khơi dậy sự sáng tạo của trẻ nhỏ để chúng chinh phục ngọn núi cao nhất có thể bằng chính đôi chân của mình. Không ai có thể làm hơn thế.”
Giáo viên
Giáo viên theo phương pháp Reggio Emilia giữ vai trò hỗ trợ trẻ khám phá, quan sát hoạt động của trẻ, không có quy tắc bắt buộc và linh hoạt thay đổi thời gian và không gian theo mong muốn của trẻ, nhưng đồng thời đảm bảo trẻ đạt được các mục tiêu phát triển theo từng độ tuổi của chương trình giáo dục mầm non. Giáo viên cùng trẻ tham gia vào các hoạt động đồng thời quan sát khi trẻ chơi với nhau và cẩn thận ghi chép lại thông tin. Các giáo viên sẽ phối hợp với nhau, sử dụng các phương tiện thông tin, thiết bị hiện đại hỗ trợ cho việc giảng dạy và hướng dẫn trẻ sử dụng nguyên vật liệu học khi cần thiết.
Môi trường đóng vai trò quan trọng trong việc học của trẻ
Môi trường là người thầy thứ ba cũng chính là nơi định giá quá trình học tập của trẻ, là nơi cung cấp cho trẻ những công cụ để hiện thực hóa ý tưởng của trẻ và trong phương pháp Reggio Emilia, sự hợp tác giữa các trẻ được đánh giá rất cao.
Hầu hết các trường học Reggio Emilia lý tưởng đều có một “xưởng nghệ thuật” được lấp đầy với các vật liệu như đất sét, sơn và các nguyên vật liệu thiên nhiên, các tác phẩm sáng tạo của trẻ. Trẻ em sử dụng các vật liệu trong “xưởng nghệ thuật” để thể hiện những suy nghĩ và hiểu biết của trẻ về những gì trẻ suy nghĩ hay đã học được trong các dự án.
(Nguồn bài viết: Tổng hợp)
Danh sách các trường áp dụng phương pháp giảng dạy Reggio Emilia:
https://esearch.vn/vi/school/mam-non-quoc-te-global-ecokids-hcmc-e-54
https://esearch.vn/vi/school/truong-mam-non-song-ngu-south-sky-ssk-e-60
https://esearch.vn/vi/school/truong-mam-non-quoc-te-kinder-academy-e-81
(Phần 2) Phương pháp giáo dục Montessori
4. Thực tiễn giáo dục Montessori
Giai đoạn sau sinh đến 6 tuổi
- Chương trình dành cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ (dưới ba tuổi): Montessori đưa ra nhiều thuật ngữ liên quan đến chương trình học giai đoạn này. ‘Nido’ tiếng Ý, dịch ra có nghĩa là ‘tổ chim’ dùng để chỉ một số lượng nhỏ trẻ tử 2 tháng đến 14 tháng tuổi, khi trẻ đã biết đi. ‘Một Cộng đồng Trẻ Nhỏ’ ám chỉ số lượng trẻ nhiều hơn từ 1 – 2 tuổi rưỡi và 3 tuổi. Cả hai nhóm này đều được học trong môi trường có học cụ và hoạt động thiết kế phù hợp với độ lớn, kích thước và khả năng của trẻ. Trẻ hoàn toàn có cơ hội phát triển vận động và tính độc lập.
Việc rèn luyện cho trẻ kỹ năng tự đi vệ sinh cũng được đặc biệt chú ý trong giai đoạn này. Một số trường còn có mô hình lớp học ‘phụ huynh-học sinh’, cho phép cha mẹ vào lớp cùng các con.
- Lớp mẫu giáo và tiền tiểu học (dành cho trẻ từ hai tuổi rưỡi, ba tuổi đến sáu tuổi): Các lớp này có tên gọi là Ngôi Nhà Trẻ Thơ (‘Children’s House’). Lớp học có sự pha trộn giữa các lứa tuổi. Số lượng thường từ 20-30 học sinh, phụ trách bởi một giáo viên dày dạn kinh nghiệm và một trợ giảng. Bàn ghế trong lớp được thiết kế dành riêng cho từng cá nhân hoặc nhóm trẻ hoạt động. Giá để học cụ cũng được thiết kế và sắp xếp đủ tầm với của trẻ. Ban đầu giáo viên sẽ giới thiệu mẫu hầu hết các hoạt động, sau đó trẻ tự do lựa chọn hoạt động mà chúng yêu thích. Các học cụ và hoạt động trong lớp học giúp trẻ thực hành nhiều kỹ năng cơ bản như rót, xúc bằng thìa, học cụ phát triển các giác quan, học cụ liên quan đến toán học, ngôn ngữ, âm nhạc, mỹ thuật, v.v….
Từ 6-12 tuổi
Các lớp tiểu học: Số lượng học sinh có thể từ ít đến nhiều (lên tới 30 học sinh hoặc hơn), được phụ trách bởi một giáo viên dày dạn kinh nghiệm và một/hoặc nhiều trợ giảng. Cũng có sự pha trộn lứa tuổi ở bậc học này (nhóm 6-9 tuổi, nhóm 9-12 tuổi, thậm chí có nhóm 6-12 tuổi, nhưng hiếm gặp hơn). Trẻ sẽ được học theo nhóm, sau đó là hoạt động độc lập theo khả năng và sở thích của bản thân. Quy mô hay chủ đề của bài học khá rộng. Montessori sử dụng thuật ngữ ‘giáo dục vũ trụ’ – ‘cosmic education’ để nói về vấn đề này. Bà cho rằng trẻ ở giai đoạn này cần được giáo dục để nhận biết vai trò của con người trong mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau khi tác động vào thế giới xung quanh. Các học cụ và bài học trong giai đoạn này được thiết kế phục vụ cho các môn học như ngôn ngữ, toán học, lịch sử, các môn khoa học, mỹ thuật, vv… Ngoài ra, học sinh còn được tham gia khám phá môi trường sống xung quanh thông qua nhiều hoạt động ngoại khóa, dã ngoại.
Từ 12-18 tuổi
Trung học cơ sở và trung học phổ thông: Montessori không thiết kế chương trình đào tạo chi tiết cho các bậc học này. Tuy nhiên, một số trường học đã mở rộng chương trình của mình lên đến bậc trung học cơ sở và phổ thông trung học. Ngoài ra, một số tổ chức Montessori đã phát triển chương trình đào tạo giáo viên thông qua nhiều khóa học khác nhau.
Trẻ trong giai đoạn này nên được tiếp xúc thực tế và gần gũi thiên nhiên càng nhiều càng tốt, đặc biệt là trẻ ở thành phố. Đây là tiêu chí và phương châm hàng đầu mà các nhà giáo dục Montessori đã đưa ra đối với chương trình học ở thời kỳ này.
5. Tính hợp pháp của phương pháp Montessori
Phương pháp Montessori được cộng đồng quốc tế công nhận, và nó đã được áp dụng thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Năm 1929, Montessori đã thành lập tổ chức AMI (Hiệp Hội Montessori Toàn Cầu), để ‘duy trì sự nguyên vẹn trong phương châm giáo dục của bà, và đảm bảo nó vẫn trường tồn ngay cả khi bà không còn sống’. AMI đến nay vẫn tiếp tục duy trì các lớp đào tạo giáo viên, có sử dụng các học cụ do bà Montessori thiết kế và sau này là con trai Mario Montessori phát triển thêm. Cộng đồng Montessori được thành lập ở Mỹ và một số quốc gia Châu Âu, tuy nhiên việc đào tạo giáo viên và các vấn đề liên quan đến tính hợp pháp của nó lại nằm dưới sự kiểm soát của Montessori khi bà còn sống. Năm 1960, sau một số chanh chấp với AMI, AMS (Tổ chức Montessori Mỹ) đã được thành lập. Sau này, hai tổ chức cũng đã rút ngắn sự khác biệt và cùng hợp tác, tôn trọng, ủng hộ lẫn nhau trong các hoạt động giáo dục của mình’. AMS có mở ra nhiều chương trình đào tạo giáo viên và giới thiệu trên trang của mình ‘là tổ chức Montessori lớn nhất trên thế giới’. Ngoài tổ chức này ra, còn nhiều tổ chức nhỏ khác cũng cung cấp các chương trình đào tạo giáo viên Montessori. Hiện vẫn còn những tranh cãi xung quanh vấn đề quyền, lợi ích hợp pháp mà các tổ chức Montessori có được trên thế giới.
Năm 1967, Ủy ban Kiểm Tra Cấp Bằng Sáng Chế Mỹ’ - The US Patent Trademark Trial and Appeal Board’ có nói rõ ‘thuật ngữ 'Montessori' mang tính mô tả, và/hoặc có một đặc điểm chung. Ở Mỹ cũng như các quốc gia khác, nó có thể được sử dụng rộng rãi, nếu đảm bảo nó ứng dụng đúng tinh thần và phương pháp Montessori’.
6. Phương pháp Montessori tại Việt Nam
Phương pháp Montessori được được biết đến tại Việt Nam trong khoảng 10 năm trở lại đây và đang ngày càng phổ biến tại Việt Nam. Ngày càng có nhiều trường mầm non tại Việt Nam lấy tên Montessori làm chương trình giảng dạy chính thức. Tuy được thừa nhận và ủng hộ nhưng cũng có những rào cản nhất định khiến các bậc phụ huynh phải cân nhắc khi cho con tới học tại các trường mầm non này, như: Chi phí học tập khá cao (do chi phí về học cụ thực hành), giáo viên montessori cần được đào tạo tại các trung tâm chuyên biệt, không giống chương trình đào tạo giáo viên mầm non thông thường tại Việt Nam.
(Nguồn bài viết: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Danh sách các trường áp dụng phương pháp giảng dạy Montessori:
https://esearch.vn/vi/school/truong-mam-non-song-ngu-quoc-te-montessori-sakura-hcmc-e-61
https://esearch.vn/vi/school/mam-non-quoc-te-global-ecokids-hcmc-e-54
https://esearch.vn/vi/school/he-thong-truong-mam-non-ttc-elite-sai-gon-e-63
(Phần 1) Phương pháp giáo dục Montessori
Phương pháp Giáo dục Montessori là một phương pháp sư phạm giáo dục trẻ em dựa trên nghiên cứu và kinh nghiệm của bác sĩ và nhà giáo dục Ý Maria Montessori (1870–1952). Đây là phương pháp với tiến trình giáo dục đặc biệt dựa vào việc học qua cảm giác.
Năm 1907 bà bắt đầu sự nghiệp là nhà giáo dục khi bà được mời tổ chức 1 trường trong khu tái định cư ổ chuột khu vực San Lorenzo, Ý. Trong giai đoạn này bà đã quan sát thấy rằng trẻ em hoàn toàn bị cuốn hút bởi các vật dụng và chất liệu được thiết kế để trợ giúp sự cảm nhận của giác quan. Tiến sĩ Montessori tiếp tục phát triển những sự trợ giúp dạy học chuyên biệt được dùng cho những trẻ trong môi trường thích hợp và tôn trọng những đặc tính riêng biệt của trẻ.
Phương pháp Montessori chấp nhận sự duy nhất của mỗi trẻ và cho phép trẻ phát triển tuỳ theo những khả năng riêng của mình và thời gian riêng của mình. Do đó việc tổ chức các lớp học theo mô hình Montessorri phải đảm bảo sự tôn trọng tính riêng biệt của mỗi trẻ và phải bố trí phòng học và bài học phù hợp những nhu cầu và mục đích của mỗi em.
Phương pháp chủ yếu được áp dụng cho trẻ nhỏ từ 2-6 tuổi do các bản năng và sự nhạy cảm duy nhất của trẻ nhỏ đối với các điều kiện trong môi trường.
1. Giới thiệu chung
Đặc điểm nổi trội ở phương pháp Montessori là nhấn mạnh đến vai trò của tính tự lập, tự do (trong khuôn khổ cho phép) trong việc hình thành nhân cách trẻ. Ngoài ra, phương pháp này rất tôn trọng sự phát triển tâm sinh lý tự nhiên của trẻ, cũng như trang bị đầy đủ cho học sinh các kiến thức khoa học công nghệ tiến bộ và hiện đại. Tổ chức AMI (Hiệp Hội Montessori Quốc tế) và AMS (Hiệp Hội Montessori Mỹ) đã nêu ra đặc trưng của phương pháp học Montessori như sau:
- Lớp học ghép các lứa tuổi lại với nhau. Thông thường là các trẻ từ 2½ hay 3 tuổi đến 6 tuổi.
- Trẻ tự lựa chọn hoạt động (với điều kiện là các hoạt động này đã được giáo viên lên kế hoạch sắp xếp trước)
- Trẻ không bị ngắt quãng hay làm phiền trong quá trình ‘làm việc’
- Học sinh học hỏi khái niệm, kiến thức thông qua trải nghiệm thực tế với các học cụ, mô hình mang tính chất khám phá, xây dựng, hơn là học theo chỉ dẫn trực tiếp từ phía giáo viên.
- Các học cụ giáo dục đặc biệt được Bà Montessori và đồng sự nghiên cứu, sáng tạo và phát triển nên.
Ngoài ra, nhiều trường học Montessori cũng tự thiết kế chương trình có tham khảo nhiều tài liệu về phương pháp giáo dục của bà Montessori (trong đó phải kể đến là các bài học, học cụ mang tính mô phạm hay phương pháp giáo dục mà Tiến sĩ Montessori đưa ra trong các khóa đào tạo giáo viên đương thời).
2. Lịch sử hình thành
Montessori bắt đầu phát triển phương pháp và triết lý giáo dục của mình vào năm 1897, sau khi tham dự khóa học giáo dục tại trường Đại học Rome và nghiên cứu các thuyết giáo dục hai trăm năm trước đó. Năm 1907, Bà mở lớp học đầu tiên của mình mang tên Casa dei Bambini, hay còn gọi là Children’s House (Ngôi Nhà Trẻ Thơ) tại một khu căn hộ nằm ở thủ đô Roma. Ngay từ ban đầu, Montessori đã bắt đầu thực hiện phương pháp giáo dục của mình thông qua quan sát những gì trẻ trải nghiệm với môi trường xung quanh, với các học cụ và bài học được thiết kế dành riêng cho trẻ. Bà thường gọi công việc mà mình đang làm là ‘giáo dục mang tính khoa học’. Phương pháp Montessori sau đó được phát triển và mở rộng ra toàn nước Mỹ năm 1911 và được biết đến rất nhiều thông qua các phương tiện thông tin, đặc biệt đã được xuất bản thành sách. Tuy nhiên do xuất hiện nhiều mâu thuẫn giữa Montessori và một số nhà giáo dục Mỹ khác, đặc biệt sau khi cuốn ‘The Montessori System Examined’ (tạm dịch là ‘Khảo Sát Hệ thống Giáo dục Montessori’) do một nhà giáo dục học nổi tiếng William Heard Kilpatrick phát hành, đã hạn chế truyền bá tư tưởng của bà và sau năm 1914, phương pháp Montessori đã bị lu mờ đi. Nó chỉ thực sự trở lại, thâm nhập vào nước Mỹ vào năm 1960 và được áp dụng tại hàng nghìn trường học ở quốc gia này. Tiến sĩ Montessori tiếp tục công tác giảng dạy của mình trong suốt quãng đời còn lại của mình, nghiên cứu và phát triển toàn diện quá trình hình thành, phát triển tâm lý của trẻ từ giai đoạn sơ sinh đến 24 tuổi. Ngoài ra, Bà cũng đã xây dựng các phương pháp tiếp cận giáo dục đối với những trẻ từ 0-3 tuổi, từ 3-6 tuổi, và từ 6-12 tuổi. Chương trình dành cho trẻ từ 12-18 tuổi cũng được bà nghiên cứu và lên chương trình, tuy nhiên nó không được phát triển vào thời của bà.
3. Thuyết giáo dục Montessori
Các hoạt động mang tính tự xây dựng, tự do, không bị gò bó ép buộc
Phương pháp giáo dục Montessori về cơ bản là xây dựng mô hình phát triển của con người, và các cách tiếp cận giáo dục đều dựa trên mô hình đó. Mô hình này bao gồm hai thành tố. Trước hết là trẻ và người lớn tham gia vào quá trình xây dựng tâm lý thông qua tương tác với môi trường xung quanh. Thứ hai là trẻ, đặc biệt là trẻ dưới 6 tuổi – đối tượng có sự phát triển tâm lý bẩm sinh. Dựa trên những gì quan sát được, Montessori cho rằng trẻ nếu được tự do chọn lựa và hoạt động trong một môi trường được chuẩn bị kỹ càng, phù hợp với khả năng và giai đoạn phát triển, thì chúng sẽ phát huy tối đa tiềm năng sẵn có của mình.
Xu hướng của nhân loại
Montessori nhận thấy có những đặc tính mang tính bẩm sinh và phổ biến trong tâm lý con người mà con trai của bà và đồng sự Mario Montessori gọi đó là ‘human tendencies’ – ‘xu hướng của nhân loại’ (năm 1957). Những xu hướng đó là:
- Bản năng tự bảo toàn
- Khuynh hướng thích gần gũi với thiên nhiên
- Tính trật tự
- Thích khám phá
- Giao tiếp
- Làm việc hay còn được mô tả là ‘hoạt động có mục đích’
- Thao tác với môi trường xung quanh
- Tính chính xác
- Tính lặp lại
- Tính trừu tượng
- Tính hoàn hảo
- Trí tuệ toán học
Trong phương pháp Montessori, xu hướng trên được xem là các hành vi chủ đạo trong mỗi giai đoạn phát triển và phương pháp giáo dục tốt là phương pháp dựa trên các hành vi này, đơn giản hóa chúng và có tính ứng dụng phù hợp.
Môi trường chuẩn bị
Môi trường giáo dục của Montessori là nơi học sinh được tự do hoạt động trong một ‘môi trường được chuẩn bị’ – được thiết kế phù hợp với đặc trưng phát triển cơ bản của con người nói chung và tính cách mỗi cá nhân nói riêng ở các giai đoạn phát triển khác nhau. Môi trường đó cho phép trẻ phát huy tính độc lập ở tất cả các lĩnh vực, phù hợp với xu hướng phát triển tâm lý bên trong trẻ. Ngoài yếu tố tiếp cận dễ dàng với các học cụ Montessori theo từng lứa tuổi, môi trường Montessori còn phải thể hiện được các tiêu chí dưới đây:
- Xây dựng phù hợp với nhu cầu của trẻ
- Đẹp, hài hòa, sạch sẽ
- Có tính trật tự
- Có sự sắp xếp hợp lý giữa các hoạt động
- Các học cụ mang tính chuyên biệt, giúp tạo sự phát triển toàn diện của trẻ
Các mức độ phát triển
Montessori chia sự phát triển của con người ra làm bốn giai đoạn, từ lúc mới sinh đến 6 tuổi, từ 6 -12 tuổi, từ 12-18 tuổi và từ 18-24 tuổi. Mỗi giai đoạn có những đặc trưng không giống nhau và tương ứng là các phương pháp tiếp cận giáo dục khác nhau cho từng giai đoạn
- Giai đoạn đầu tiên: Là giai đoạn sau sinh đến khi trẻ được khoảng 6 tuổi. Theo sự quan sát của Montessori, trong suốt giai đoạn này trẻ trải qua quá trình phát triển tâm sinh lý không ngừng và nổi bật nhất. Trẻ là những cá nhân học tập và khám phá thế giới xung quanh rất tinh tế bằng các giác quan nhạy bén của mình, từ đó hình thành nên tính độc lập và tự xây dựng mang nét riêng của từng cá nhân. Montessori đã nêu ra một số khái niệm để giải thích quá trình ‘làm việc’ này của trẻ, bao gồm khái niệm về trí tuệ tiếp thu, các thời kỳ nhạy cảm và sự bình thường hoá.
- Trí tuệ thẩm thấu: Montessori mô tả hành vi của trẻ nhỏ nỗ lực không ngừng nghỉ học hỏi thông qua các kích thích từ môi trường xung quanh – các giác quan, ngôn ngữ, văn hóa, và hình thành khái niệm với thuật ngữ ‘trí tuệ thẩm thấu’. Tiến sĩ Montessori thấy rằng giai đoạn phát triển quan trọng nhất của trẻ nằm ở sáu năm đầu đời – thời điểm trẻ sở hữu trong mình ‘Trí Tuệ Thẩm Thấu’. Nói cách khác, trẻ tiếp thu thế giới xung quanh giống như miếng bọt biển thấm hút nước vậy. Do đó, mục tiêu giáo dục trong thời kỳ này là trau dồi, tu dưỡng khát khao học hỏi và tiếp thu một cách tự nhiên của trẻ.Bà cũng cho rằng đây là khả năng duy nhất, đặc biệt trong giai đoạn đầu đời của trẻ và nó phai nhạt dần sau khi trẻ được 6 tuổi.
- Thời kỳ nhạy cảm: Montessori cũng quan sát các giai đoạn nhạy cảm đặc biệt của trẻ trước những kích thích từ môi trường xung quanh. Bà gọi đó là ‘Thời kỳ nhạy cảm’. Môi trường lớp học Montessori (các học cụ và hoạt động) được thiết kế và sắp xếp phù hợp với từng giai đoạn nhạy cảm mà trẻ bộc lộ. Montessori đã chỉ ra các giai đoạn nhạy cảm đó, bao gồm:
+ Việc học tập, lĩnh hội ngôn ngữ - từ lúc mới chào đời đến khi trẻ được khoảng 6 tuổi
+ Tính trật tự - giai đoạn trẻ từ 1-3 tuổi
+ Sự gọt giũa tinh tế của các giác quan – từ lúc mới sinh đến 3 tuổi
+ Sự đam mê với các đồ vật nhỏ - khi trẻ được 18 tháng đến 3 tuổi
+ Sự phát triển của các hành vi xã hội – khi trẻ được 2,5 – 4 tuổi
- Sự bình thường hoá: Khái niệm này xuất phát từ yếu tố tập trung vào hoạt động đáp ứng nhu cầu phát triển của trẻ. Điểm nổi bật của nó là khả năng tập trung cũng như ‘các nguyên tắc không gây gò bó hay ép buộc theo khuôn khổ, trẻ cảm thấy hạnh phúc khi được làm việc, biết cảm thông và tham gia giúp đỡ những người khác’.
- Giai đoạn thứ hai (trẻ từ 6-12 tuổi)
Trong giai đoạn này, Montessori quan sát sự thay đổi về tâm sinh lý của trẻ, từ đó thiết kế môi trường học tập, kế hoạch bài giảng, học cụ phù hợp với những tích cách mới đặc trưng ở trẻ. Về mặt sinh lý, Bà quan sát được quá trình thay răng ở trẻ và sự phát triển chiều cao của cơ thể trẻ. Về mặt tâm lý, Montessori nhận thấy có sự xuất hiện của ‘khuynh hướng tập thể - "herd instinct" – nghĩa là trẻ có xu hướng làm việc và giao tiếp theo nhóm; ngoài ra trẻ sở hữu trong mình trí tưởng tượng và biện giải vô cùng phong phú. Qua những gì quan sát được, Montessori cho rằng quá trình ‘làm việc’ và phát triển của trẻ trong giai đoạn thứ hai này sẽ giúp chúng hình thành nên tính tự lập, khôn khéo, có tính tổ chức xã hội và dễ dàng tiếp thu các bài học đạo đức.
- Giai đoạn thứ ba – giai đoạn thiếu niên (trẻ từ 12-18 tuổi)
Montessori quan sát thấy đây là giai đoạn trẻ có nhiều thay đổi về sinh lý rất quan trọng – nói cụ thể hơn là trẻ trải qua giai đoạn dậy thì trong thời kỳ này. Tâm lý của trẻ thường không ổn định và chúng gặp nhiều vấn đề về khả năng tập trung cũng như sáng tạo. Thay vào đó, ở trẻ hình thành tính ‘phán xét và coi trọng phẩm hạnh cá nhân’. Montessori sử dụng thuật ngữ ‘bình ổn – valorization’ để mô tả điều này. Bà cho rằng giai đoạn thứ ba đánh dấu việc hình thành và phát triển của một người lớn trưởng thành ở trẻ.
- Giai đoạn thứ tư (trẻ từ 18-24 tuổi)
Montessori không tập trung nghiên cứu nhiều về giai đoạn này. Bà cho rằng những gì được đào tạo trong những giai đoạn đầu là tiền đề để trẻ phát huy khi tiếp xúc với cấp độ học văn hóa và khoa học cao hơn về sau này, từ đó có những ảnh hưởng và đóng góp nhất định cho xã hội. Montessori nhận thấy giai đoạn này trẻ có thể làm việc kiếm tiền và độc lập về tài chính. Việc hạn chế số năm học đại học cũng không cần thiết vì theo bà, học tập có thể theo đuổi con người suốt cuộc đời.
Giáo dục và hòa bình
Khi xây dựng lý thuyết và thực hành, Montessori tin tưởng giáo dục có vai trò đặc biệt quan trọng, đóng góp vào nền hòa bình chung của thế giới. Bà nhận thấy nếu trẻ được tạo điều kiện phát triển theo đúng quy luật phát triển tự nhiên của mình, chúng sẽ biết cách tôn trọng hòa bình và đóng góp nhiều cho sự phát triển của văn minh nhân loại. Từ những năm 1930 cho đến những năm tháng cuối đời, Montessori đã có rất nhiều các bài giảng liên quan đến chủ đề này. Quan điểm của bà là ‘Phòng chống chiến tranh, bạo lực là nhiệm vụ của chính trị; xây dựng hòa bình là nhiệm vụ của giáo dục’
Bà đã vinh dự nhận được tổng cộng sáu đề cử cho giải Nobel Hòa bình trong ba năm 1949, 1950, và 1951.
(Nguồn bài viết: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)
Danh sách các trường áp dụng phương pháp giảng dạy Montessori:
https://esearch.vn/vi/school/truong-mam-non-song-ngu-quoc-te-montessori-sakura-hcmc-e-61
https://esearch.vn/vi/school/mam-non-quoc-te-global-ecokids-hcmc-e-54
https://esearch.vn/vi/school/he-thong-truong-mam-non-ttc-elite-sai-gon-e-63
5 phương pháp giáo dục dành cho bé tuổi mầm non
Giáo dục sớm là phương pháp giáo dục dành cho bé từ 0 – 6.5 tuổi. Đây là phương thức giáo dục nhằm phát huy những tố chất tốt đẹp, lấy tố chất xây dựng nên tính cách, từ đó làm cơ sở cho sự phát triển con người sau này cho trẻ. Dưới đây là 5 phương pháp giáo dục sớm nổi tiếng trên thế giới mà các bậc cha mẹ nên biết:
1. Phương pháp giáo dục sớm Montessori
Được biết đến là một trong những người tiên phong ở lĩnh vực nghiên cứu chương trình giáo dục cho trẻ em, bác sĩ Maria Montessori còn là nhà sáng lập ra phương pháp giáo dục Montessori nổi tiếng.
Ra đời từ những năm đầu thế kỷ 20 đến nay, phương pháp giáo dục Montessori vẫn còn nguyên giá trị và có ảnh hưởng rất lớn đến hầu hết các nền giáo dục phát triển trên thế giới. Hiện nay Montessori đã được áp dụng giảng dạy trên hơn 25.000 trường học ở Mỹ (6000), Nhật Bản (4000), Anh (800) … và xuất hiện ở Việt Nam từ năm 2003 với khoảng 50 – 70 trường mầm non.
Phương pháp Montessori được đánh giá là phương pháp giáo dục khoa học tiên tiến, vượt qua được mọi sự khác biệt về quốc gia, tôn giáo để trở nên phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Từ khi sinh ra trẻ đã có một sức sống nội tại rất tích cực và không ngừng phát triển. Nhiệm vụ của giáo dục chính là giúp trẻ phát huy được sức sống nội tại đó để phát triển một cách tự nhiên và tự do theo một quy luật riêng. Các nhà giáo dục, thầy cô và cha mẹ nên quan sát và nghiên cứu trẻ tìm hiểu về thế giới nội tâm của chúng, phải yêu thương trẻ, tôn trọng tính cách của chúng, giúp trí não, tinh thân, thân thể và tính cách của trẻ phát triển một cách tự nhiên.
Phương pháp Montessori học tập trên các giáo cụ đặc biệt giúp xây dựng một môi trường học tập thân thiến khiến trẻ có thể tự tìm tòi, sáng tạo và vui vẻ học tập từ đó phát huy hết tiền năng, giúp trẻ hình thành sự tự tin, tập trung óc quan sát, sức sáng tạo và nền tảng vững chắc cho sự phát triển của trẻ.
2. Phương pháp giáo dục sớm cho con của người Mỹ
Theo quy định của pháp luật, các bậc phụ huynh ở Mỹ chỉ có trách nhiệm nuôi con dưới 18 tuổi còn trên 18 tuổi chúng sẽ phải tự chi trả cho cuộc sống của mình. Thực tế cho thầy hầu hết các thanh niên ở Mỹ đều có thể tự kiếm tiền nuôi mình và tự chi trả cho việc học tập khi ở độ tuổi 18. Còn trẻ con Mỹ rất thông minh, tự lập và dũng cảm. Các bé không chỉ thông minh mà còn rất sáng tạo sở dĩ chúng có được những phẩm chất này chính nhờ vào cách giáo dục của cha mẹ người Mỹ. Họ không chỉ là bạn mà còn là người thầy ở bên con trong suốt cuộc đời. Ngay từ khi còn rất nhỏ, trẻ em Mỹ đã tự biết mặc quần áo, đưa báo đến từng nhà khi trời con chưa sáng, thậm chí có thể tự đi chơi một mình với bạn bè, đi ra ngoài không sợ bóng tối hay có thể tự mình sửa chữa những món đồ chơi bị hỏng hoặc tự kiếm tiền chi trả học phí.
Ngay từ khi 1.5 tuổi, người Mỹ đã bắt đầu dạy cho trẻ các kỹ năng tự phục vụ bản thân mình vì nó sẽ giúp trẻ tăng cường tính độc lập và cảm giác về sự thành công, không chỉ có lợi cho sự phát triển của trẻ mà còn giúp đỡ các bố mẹ rất nhiều. Bất cứ sự chăm sóc nào từ phía người lớn cũng phải tạo cho trẻ có cơ hội rèn luyện các kỹ năng này. Ở các trường mẫu giáo ở Mỹ, ngoài việc khơi gợi tiềm năng giai đoạn đầu cho trẻ người ra rất coi trọng việc:
Dạy trẻ các quy tắc lễ nghi: phải nghe theo lời chỉ bảo của các giáo viên, học cách tham gia các hoạt động tập thể cùng với những đứa trẻ khác.
Đối với những trẻ phạm lỗi, không nghe lời : dùng phương pháp phajto ử một mình bởi ở độ tuổi này trẻ rất sợ ở một minh hơn nữa khi đó trẻ sẽ bình tĩnh trở lại và lúc đó giảng giải cho trẻ sẽ hiệu quả cao hơn.
Giáo viên mẫu giáo ở mỹ đều trải qua các yêu cầu khá nghiêm ngặt về trình độ
3. Phương pháp giáo dục sớm của mẹ Nhật
Tại Nhật, việc chăm sóc nuôi dạy con cái hầu như được dồn về phía người mẹ. Bí quyết đầu tiên khiến các bà mẹ Nhật thành công khi nuôi dạy con cái chính là sự gắn kết tinh thần giữa các con dựa trên nền tảng yêu thương và gần gũi. Họ thường xuyên trò chuyện, tâm sự, chơi đùa, học cùng con, ngôi nhà được xem như tổ ấm nơi các con có thể nói cho mẹ nghe những áp lực, cách cư xử khi ở ngoài xã hội. Bởi vậy các bà mẹ kiên nhẫn dạy dỗ con về đạo đức và cách cư xử ở ngoài xã hội nhiều, thông qua đó thuyết phục, khuyến khích con thay vì la mắng và đánh phạt. Bên cạnh cách dạy dỗ ở gia đình, các bà mẹ Nhật thường chú trọng cho bé đi nhà trẻ từ sớm. Bởi các trường mẫu giáo Nhật chú trọng vào dạy trẻ biết cách chơi đùa, thông qua các trò chơi vận động ngoài trời, cách mỉm cười, cư xử với các bạn bè nhiều hơn học chữ và học viết. Các bà mẹ Nhật thường chuẩn bị vật dụng ngoại khóa của con khá kỹ càng để chúng có thể tự đi bộ hay đi xe bus đều có các vật dụng an toàn và chào hỏi với mọi người trên đường. Từ 2 tuổi các bé đã tự mặc quần áo, ăn uống,… hay tự vệ sinh cá nhân của mình. Đến 3 – 4 tuổi, trẻ đã tự lập khi đi ngủ, đi học hay sang nhà bạn chơi và giúp mẹ chuẩn bị các bữa ăn dọn dẹp nhà cửa.Đến 5 tuổi, trẻ có thể tự trông em, giúp mẹ nhiều việc nhà hơn, biết cách cư xử với bạn bè tốt.
4. Phương pháp giáo dục sớm của người Do Thái lại khác biệt
Với hơn 13 triệu dân nhưng chiếm gần 40% tỷ lệ đoạt giải Nobel người Do Thái dường như là dân tộc thông minh nhất trên thế giới, họ sinh ra dường như để làm chủ thế giới này.Một trong những bí quyết của người Do Thái chính là dạy con biết vượt khó, liên tục đặt câu hỏi từ nhỏ. Người Do Thái dành cho con một sự nhen nhóm, khích lệ con chứ không phải cảm giác an toàn bao bọc con như phần lớn các bà mẹ Việt. Bà mẹ nào cũng yêu con nhưng cách yêu và thể hiện tình cảm giữa mỗi bà mẹ là khác nhau. Tình yêu con phải nhìn xa trông rộng đem lại lợi ích suốt đời cho con, đào tạo đứa trẻ trở nên bản lĩnh, thực sự mạnh mẽ trong cuộc đời chúng.Có 3 điều mà người mẹ Do Thái không nên làm với con đó là: Không thỏa mãn trước, không thỏa mãn tức thời, không thỏa mãn quá mức yêu cầu của con. Người Do Thái coi làm việc nhà là dạy trẻ cơ hội sinh tồn cơ bản cho con
5. Phương pháp giáo dục sớm Glenn Doman
Là một phương pháp giáo dục sớm phổ biến trên thế giới kích thích trí thông minh của trẻ qua Flashcard (thẻ) hay Dot Card. Phương pháp này không dạy cho trẻ ách biết đọc hay biết viết mà nhăm kích thích sự thông mnih trong bộ não của trẻ.Đê hiểu rõ mục đích của phương pháp giáo dục sớm Glenn Doman, chúng ta sẽ tìm hiểu về bộ não của con người:- Bộ não của con người chia làm 2 phần: Bán cầu não trái và bán cầu não phải. Con người có những thời điểm phát triển của bộ não riêng. Thời điểm thai được 22 tuần và thời điểm khoảng 5 – 6 tháng tuổi. 0 – 6 tuổi được coi à giai đoạn vàng phát triển của trẻ. Giai đoạn này giúp trẻ hoàn thành hầu hết các chức năng của trẻ, mặt khác đến 6 tuổi trở đi, não phải ngừng phát triển và nhường chỗ cho não trái. Nhiều nghiên cứu cho thấy, một người có thông minh hay không phần lớn được quyết định bởi việc phát huy tiềm năng trí tuệ não người, phải sử dụng cả não trái và não phải để trẻ phát triển toàn diện và hỗ trợ nhau.- Phương pháp này, kích thích khả năng ghi nhớ, phân tích, xử lý tư duy logic cực kỳ thông minh của não phải của trẻ bằng các học liệu trực quan giúp trẻ tư duy 1 cách thông minh, logic ngay từ ban đầu xây dựng phương pháp học tập cho trẻ một cách tự nhiên không ép buộc phương pháo này sử dụng các hình ảnh học liệu Flash card và Dot Card như một trò chơi cho trẻ.
Việc dạy dỗ trẻ có thể bắt đầu ngay với trẻ sơ sinh với phương pháp phù hợp với tâm lý của trẻ. Và phương pháp giáo dục sớm cho trẻ chính là phương pháp giáo dục con thông minh trên thế giới mà các bậc cha mẹ nên tìm hiểu và áp dụng.
(Nguồn bài viết: Đội ngũ Esearch tổng hợp)